DIỄN ĐÀN HÓA HỌC _ ĐẠI HỌC TRÀ VINH
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
DIỄN ĐÀN HÓA HỌC _ ĐẠI HỌC TRÀ VINH

Diễn đàn Hóa Học sinh viên Trường Đại Học Trà vinh.
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Cách viết một bài báo khoa học p2

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
langthang
Đại Tướng
Đại Tướng
langthang


Tổng số bài gửi : 173
Join date : 03/12/2010
Đến từ : Miền Đất Chết

Cách viết một bài báo khoa học p2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Cách viết một bài báo khoa học p2   Cách viết một bài báo khoa học p2 EmptyWed Dec 08, 2010 12:20 pm

Cách viết một bài báo khoa học p2 Slide3
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 4 – Kết quả) Tiếp theo phần phương pháp là phần trình bày kết quả nghiên cứu. Một khó khăn mà phần lớn nghiên cứu sinh mắc phải là không biết trình bày kết quả ra sao và như thế nào trong đống rừng dữ liệu thí nghiệm thu thập và phân tích. Vì thế, trong phần này, tôi sẽ chỉ cho các bạn một vài mẹo nhỏ và cách thức viết phần kết quả sao cho thuyết phục và nhất là phải ăn khớp với phần dẫn nhập. Đây là phần 4 của loạt bài này, mà tôi đã "mắc nợ" với rất nhiều bạn nghiên cứu trên thế giới vì trót hứa là phải "ra lò" mỗi bài một tuần!
Chỉ dẫn chung
Về nguyên tắc, trong phần kết quả,tác giả phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát hiện những gì?” (Tức là trả lời câu hỏi"What did you find?") Cần phải phân biệt rõ đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số liệu, và những dữ liệu này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản. Những số liệu phải được trình bày để lần lượt trả lời các mục đích nghiên cứu (hay câu hỏi nghiên cứu) mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.
Phần kết quả phải được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tất cả các bảng thống kê, biểu đồ, và hình ảnh phải được chú thích rõ ràng; tất cả những kí hiệu phải được đánh vần hay chú giải một cách cụ thể để người đọc có thể hiểu được ý nghĩa của những dữ kiện này. Trong phần kết quả, tác giả chỉ trình bày sự thật và chỉ sự thật (facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không tiên đoán trước được hay những kết quả “tiêu cực” (ngược lại với điều mình mong đợi). Tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những kết quả này cao hay thấp, xấu hay tốt, v.v.. vì những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong phần thảo luận (Discussion).
Chỉ dẫn cụ thể
Phần kết quả có thể ví von là “trái tim” của một bài báo khoa học. Cái khó khăn lớn nhất là làm sao trình bày rất nhiều dữ liệu và phân tích trong vòng vài trang giấy. Thông thường, tác giả có thể bắt đầu trình bày những dữ liệu đơn giản nhất, những dữ liệu dễ hiểu nhất, và dần dần cung cấp những dữ liệu phức tạp hơn. Sau đây là một số chỉ dẫn cụ thể để các bạn có thể trình bày phần kết quả một cách thuyết phục:
1. Trước hết, sắp xếp những kết quả quan trọng trong một loạt bảng số liệu và biểu đồmà tác giả muốn đưa vào bài báo khoa học. Tác giả nên viết xuống giấy những kết quả được xem là thú vị, là quan trọng, nhưng chưa có cơ sở vững vàng. Những kết quả này sẽ là đầu đề để bàn luận sau này. Nếu kết quả nghiên cứu đơn giản (như bao nhiêu nam, bao nhiêu nữ, độ tuổi trung bình, v.v…), thì không cần phải trình bày trong bảng số liệu, mà chỉ cần mô tả trong bài báo là đủ. Nhưng những kết quả mang tính phức tạo thì cần phải cần đến bảng số liệu và biểu đồ.
Làm sao biết nên chọn cách trình bày bằng bảng số liệu hay biểu đồ? Kinh nghiệm của tôi cho thấy nếu số liệu chính xác là quan trọng cho bài báo, thì nên dùng bảng số liệu; nếu xu hướng (pattern) là quan trọng hơn là độ chính xác thì nên trình bày bằng biểu đồ. Dù là bảng số liệu hay biểu đồ, cần phải cẩn thận đặt tên và ghi chú cẩn thận, sao cho người đọc không cần đọc phần chi tiết trong bài báo vẫn có thể nắm được ý nghĩa của dữ liệu.
Ví dụ: bảng số liệu sau đây có tiêu đề rõ ràng, chỉ ra năm thu thập dữ liệu, địa điểm, và nội dung của dữ liệu:

Cách viết một bài báo khoa học p2 Table%201
Biểu đồ dưới đây, tác giả giải thích các kí hiệu trong biểu đồ một cách ngắn gọn mà người đọc có thể nắm lấy những nét chính của mô hình:

Cách viết một bài báo khoa học p2 Figure%201
Cố nhiên, những bảng số liệu và biểu đồ bắt buộc phải đề cập trong phần kết quả. Dùng chữ số để đề cập đến biểu đồ hay bảng số liệu. Ví dụ, nên viết: "An exponential increase in egg production of Acartia tonsa was found for algal concentrations between 10 and 1,000 cells per ml r2 =0.779, p= 0.05 (Figure 1)", thay vì viết "Figure 1 shows an exponential increase in egg production of Acartia tonsa was found for algal concentrations between 10 and 1,000 cells per ml r2 =0.779, p= 0.05."

2. Phần kết quả nên trình bày những dữ liệu để “yểm trợ” cho các mục tiêu đề ra trong phần dẫn nhập.Phần kết quả chính là nơi để tác giả trình bày cái “ca” của mình. Do đó, sự khúc chiết ở đây rất quan trọng. Tác giả cần phải thuyết phục người đọc rằng lí giải của mình là logic. Nếu người đọc cảm thấy lẫn lộn do dữ liệu trình bày, hoặc không thể nào theo dõi những diễn giải của tác giả, họ có thể không chấp nhận kết luận của tác giả (và đó là một điều nguy hiểm).
Chẳng hạn như tác giả đặt câu hỏi “chiều cao của nam sinh viên bằng chiều cao của nữ sinh viên theo học ngành sinh học”, thì việc đầu tiên tác giả phải thu thập chiều cao từ một nhóm sinh viên được chọn ngẫu nhiên trong các khoa sinh học. Sau đó tác giả tính toán các chỉ số thống kê (trung bình, độ lệch chuẩn, v.v…) và thể hiện các dữ liệu này bằng biểu đồ. Giả dụ rằng sau khi phân tích tác giả phát hiện nam sinh viên cao hơn nữ sinh viên 12.5 cm, và đó chính là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.
Cần phải nhìn vào dữ liệu và suy nghĩ cẩn thận về ý nghĩa của chúng là gì. Nếu tác giả mà không biết dữ liệu mình nói gì, thì người đọc cũng khó có thể hiểu được ý nghĩa của dữ liệu. Một khi tác giả đã biết dữ liệu của mình nói lên ý gì, thì mới có thể thiết kế một cách trình bày cho thích hợp và rõ ràng.
3. Khi mô tả kết quả nghiên cứu, cần phải đề cập đến xu hướng khác biệt (directionality) và mức độ khác biệt (magnitude). Trong phần kết quả, tác giả nên cung cấp thông tin quan trọng về mối liên hệ, và khác biệt. Hai đặc điểm cần chú ý là xu hướng và mức độ khác biệt. Chẳng hạn như không nên viết "groups A and B were significantly different". Câu hỏi đặt ra là khác biệt như thế nào? Do đó, câu văn trên cần phải viết lại cho có thông tin hơn, ví dụ như: "Group A individuals were 23% larger than those in Group B", hay, "Group B patients gained weight at twice the rate of Group A patients."
4. Khi mô tả một bảng số liệu, tránh cách viết liệt kê. Một bảng số liệu có khi có rất nhiều số liệu phức tạp, mà tác giả có khi cảm thấy lúng túng không biết nên mô tả số liệu nào trước, và số liệu nào sau. Nguyên lí là chọn số liệu nào nổi trội, quan trọng, và có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu để trình bày. Nói chung, khi trình bày bảng số liệu, cần (a) tối thiểu hóa lặp lại những con số trong bảng số liệu; (b) cung cấp cho độc giả những thông tin bổ sung cho bảng số liệu (nhưng không có trong bảng số liệu); và (c) cố gắng súc tích.
Ví dụ: "Data from 1194 women and 761 men, whose BMD measurements were available, were analysed. The average (and standard deviation, SD) of age for both sexes was 69.5 (6.5) years old (Table 1), with an above-average concentration of subjects in the younger age group of 60-69 years (58%), followed by 70-79 years (33%) and 80+ years (9%). The distribution of body mass index (BMI) in the sample was normally distributed for both sexes, with mean of 26 (3.6) kg/m2 for men, almost identical to that of in women (25.4 (4.6) kg/m2). Approximately one-third of women and 36% of men had BMI greater than 27 kg/cm2. Dietary calcium intake was skewed toward the lower level, with median for men (592 mg/day) was not significantly different from women (573 mg/day). In both sexes, approximately 75% of intakes was below 800 mg/day. Quadriceps strength in men (33 (13) kg) was significantly higher (p < 0.0001) than women (20 (Cool kg). Physical activity index (PAI) in men was also higher (p < 0.001) in men (35 + 8.9) compared to women (30 (4.4)); 75% of men and women had PAI lower than 38 and 32, respectively."
Đối với những bảng số liệu phức tạp, tác giả cần phải viết vài dòng giải thích trước khi mô tả dữ liệu. Chẳng hạn như trong bảng số liệu sau đây trình bày về ảnh hưởng của genes và môi trường đến thành phần cơ thể (body composition) và khối lượng xương:

Cách viết một bài báo khoa học p2 Table%202
Cách viết một bài báo khoa học p2 Figure%202
Trước hết, tác giả giải thích về mục tiêu một cách ngắn gọn: “To assess whether the observed relationships between BMD at various sites and body composition were attributable to genetic or environmental factors, multivariate genetic model-fitting analysis (as described in Figure 1) was performed.”
Sau đó là giải thích ý nghĩa của các kết quả trong bảng số liệu: “Squared standardised path coefficients (Table 2) can be interpreted as estimates of heritability of specific and decomposed in terms of the portion in common with and independent of other genetic factors. Off-diagonal elements of this analysis were small relative to diagonal elements, which indicate that the majority of heritability of each variable trait is due to specific genetic factors.”
Và sau cùng là mô tả dữ liệu trong bảng số liệu: “The heritability of fat mass in this sample was 0.65, and the portion of this due to shared genetic factors with lean mass was 0.02, whereas approximately a third of the environmental variance of FM was due to shared environment with lean mass. This is consistent with the non-significant genetic correlation between lean and fat mass (0.16; p = 0.24), and the significant environmental correlation (0.51; p < 0.001, Table 3)."

Cách viết một bài báo khoa học p2 Table%203
5. Tác giả nên báo cáo kết quả “âm tính” (negative results)– vì đây là những kết quả có khi rất quan trọng! Đôi khi kết quả thí nghiệm không xảy ra như tác giả tiên lượng lúc ban đầu, hoặc không phù hợp với giả thuyết nghiên cứu, và tác giả sợ khó công bố bài báo nên cố tình dấu! Nhưng đó là điều không chấp nhận được trong khoa học. Những kết quả như thế có thể nói lên rằng giả thuyết nghiên cứu không đúng và cần phải phát biểu lại, hoặc phương pháp đo lường có vấn đề, hoặc tác giả đang ngồi trên một khám phá rất quan trọng. Bất cứ lí do gì, tác giả cần phải thành thật trình bày những kết quả “âm tính”, và đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ vì kết quả không như mình tiên lượng là những “kết quả xấu”. Nếu tác giả thiết kế công trình nghiên cứu tốt, thì những dữ liệu kết quả đó là thật, và cần phải được trình bày và diễn giải một cách thích hợp.

Những “không nên” trong phần kết quả
1. Không nên đưa vào bài báo những thông tin và dữ liệu “lặt vặt”.Những thông tin không quan trọng và nhỏ nhặt có thể làm người đọc lạc hướng vấn đề. Chẳng hạn như nếu trình bày kết quả về mối liên hệ giữa gene và bệnh tiểu đường, không cần phải trình bày thành phần kinh tế của đối tượng nghiên cứu trong bài báo. Nên nhớ rằng lúc nào cũng chú tâm đến dữ liệu nhằm yểm trợ cho mục đích đặt ra lúc ban đầu, chứ không nên tự đi ra ngoài mục tiêu của công trình nghiên cứu!
2. Tránh trình bày một loạt dữ liệu mà không có ý nghĩa gì lớn hay không diễn giải.Chẳng hạn như cách viết sau đây là phải tránh: "Hours in sunlight significantly affected growth (Table 1). Soil moisture significantly affected growth (Table 2). Soil nitrogen also had a significant effect on plant growth (Table 3)." Thay vì viết như thế, tác giả nên phát triển mỗi ý tưởng trong bài báo: mô tả ảnh hưởng hay hệ quả; mức độ ảnh hưởng ra sao; và những thông tin liên quan đến đơn vị so sánh. Một bài báo dài nên có những tiêu đề nhỏ trong phần kết quả để người đọc có thể theo dõi và đối chiếu với phần phương pháp.
3. Không nên dùng những tính từ mang tính áp đặt trong phần kết quả. Chẳng hạn như không nên viết "This difference was highly significant (p = 0.001)," mà chỉ cần đơn giản viết rằng "This difference was significant (p = 0.001)." Người đọc sẽ rất khó chịu khi tác giả dùng từ “highly” vì họ xem đó là cách đặt chữ vào miệng người đọc. Tác giả chỉ nền trình bày con số, dữ liệu; người đọc sẽ đánh giá dữ liệu đó cao hay thấp.
4. Không nên diễn giải dữ liệu trong phần kết quả. Những bình luận như "the data suggest that ...." chẳng có ý nghĩa gì cả, mà còn mang tiếng là nhét chữ vào miệng người đọc! Phần diễn giải dữ liệu nên để dành cho phần bàn luận (discussion); trong phần kết quả, tác giả chỉ trình bày sự thật.

5. Phân tích không chỉ dạy điều gì cả. Nhiều tác giả phạm phải những lỗi lầm sơ đẳng như câu "The ANOVA showed that.…" Phương pháp phân tích thống kê không “show”, không chỉ cái gì cả; tác giả mới chính là người “chỉ” ra kết quả đó có ý nghĩa gì!

Vài lới khuyên về văn phong trong phần kết quả
1. Về cách viết trong phần kết quả, nên dùng thì quá khứ và thể thụ động (passive voice). Phần lớn các tập san y khoa và khoa học nói chung yêu cầu tác giả dùng thì quá khứ để báo cáo những kết quả thí nghiệm. Tuy phần lớn các bài báo đều viết theo thể thụ động, nhưng cũng có một số ít tập san (như Lancet và New England Journal of Medicine) yêu cầu tác giả viết theo thể chủ động (active voice).
Ví dụ dưới đây nhấn mạnh đến xu hướng (trend) và sự khác biệt mà tác giả muốn người đọc tập trung vào:
“The duration of exposure to running water had a pronounced effect on cumulative seed germination percentages (Fig. 2). Seeds exposed to the 2-day treatment had the highest cumulative germination (84%), 1.25 times that of the 12-h or 5-day groups and 4 times that of controls.”
Ngược lại, trong ví dụ dưới đây, tác giả ngầm diễn giải số liệu và muốn “lôi kéo” người đọc tin vào mô hình / ý tưởng của tác giả.
“The results of the germination experiment (Fig. 2) suggest that the optimal time for running-water treatment is 2 days. This group showed the highest cumulative germination (84%), with longer (5 d) or shorter (12 h) exposures producing smaller gains in germination when compared to the control group.”
2. Khi trình bày các kết quả phân tích thống kê mang tính mô tả (như tên của test, trị số P) nên viết trong ngoặc cùng với kết quả chính mà các phương pháp test “yểm trợ”. Chẳng hạn như chiều cao của nam sinh viên cao hơn nữ sinh viên, tác giả có thể viết như sau:
"Men (180.5 ± 5.1 cm; n=34) averaged 12.5 cm taller than women (168 ± 7.6 cm; n=34) in the AY pool of Biology majors (two-sample t-test, t = 5.78, 33 d.f., p < 0.001)."
Nếu các số liệu thống kê được trình bày trong một biểu đồ, câu văn trên có thể viết lại như sau:
"Men averaged 12.5 cm taller than women in the AY 1995 pool of Biology majors (two-sample t-test, t = 5.78, 33 d.f., p < 0.001; Figure 1)."
Chú ý rằng các kết quả chính trình bày ngoài dấu ngoặc, còn kết quả phân tích thống kê thì trình bày trong dấu ngoặc.
3. Luôn luôn trình bày đơn vị đo lường (không có gì đáng “ghét” hơn là đọc một dữ liệu mà không biết đơn vị đo lường là gì!). Đối với giá trị đơn, tác giả có thể viết "the mean length was 10 m", or, "the maximum time was 140 min". Khi báo cáo các chỉ số về dao động và khác biệt, nên viết rõ dấu phía sau là SD hay SE: “10 ± 2.3 m (mean ± SD)". Tương tự, đặt đơn vị đo lường sau cùng trong dãy số liệu có cùng đơn vị đo lường, ví dụ như: "lengths of 5, 10, 15, and 20 m", or "no differences were observed after 2, 4, 6, or 8 min. of incubation".
Tuy đóng vai trò “trái tim” của một bài báo khoa học, phần kết quả cũng chỉ dài khoảng 2-3 trang. Do đó, việc chọn dữ liệu để trình bày cũng như kĩ thuật viết rất quan trọng trong việc viết phần kết quả cho đầy đủ và thuyết phục. Hi vọng rằng những hướng dẫn trên đây giúp cho các bạn soạn bài báo khoa học hay luận án tốt hơn. Cố nhiên, những hướng dẫn này thích hợp cho ngành y khoa và sinh học, có thể không hẳn thích hợp cho các ngành khác như kinh tế học chẳng hạn. Tuy nhiên, về nguyên tắc, tôi nghĩ cách viết cũng không khác nhau mấy giữa các ngành khoa học thực nghiệm.

Cách viết một bài báo khoa học p2 Hire-Rajesh-Mago-for-computer-support-and-writing-projects
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 5 – Bàn luận) Phần Bàn luận (Discussion) là phần cuối của nội dung của một bài báo khoa học, và nó có chức năng giống như là một diễn giải kết quả nghiên cứu. Chúng ta đã biết rằng phần Dẫn nhập trả lời câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này”; phần Phương pháp trả lời câu hỏi “Đã làm gì và làm ra sao”; phần Kết quả là nhằm trả lời câu hỏi “Đã phát hiện những gì”; và phần Bàn luận tập trung vào trả lời cho được câu hỏi “Những phát hiện đó có ý nghĩa gì”?


Tiếp theo kì trước:
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 4 – Kết quả)
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 3 – Phương pháp)
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 2 - Dẫn nhập)
Cách viết một bài báo khoa học (Phần 1)

Trong bài báo khoa học, phần Bản luận là phần khó viết nhất. Các nghiên cứu sinh khi mới bắt đầu viết thường lúng túng không biết bắt đầu như thế nào, mà đọc những bài báo trong y văn thì cũng không nắm được nội dung và cấu trúc ra sao. Ngay cả nhiều giáo sư có kinh nghiệm cũng có khi cảm thấy khó khăn khi viết phần Bàn luận, vì họ không biết nhấn mạnh vào khía cạnh nào, và viết như thế nào cho thuyết phục. Một trong những khó khăn lớn nhất là phần Bàn luận không có một cấu trúc cụ thể nào. Thật vậy, trong khi phần Phương pháp và Kết quả còn có cấu trúc, còn phần Bàn luận thì tác giả có thể viết bất cứ gì mình thích (nhưng người đọc có thích hay không là chuyện khác!)

Tuy không có qui định cấu trúc cụ thể, nhưng chúng ta có thể học từ bài báo hay để đi đến một qui luật. Kinh nghiệm của tôi cho thấy những bài báo hay thường viết phần bàn luận theo cấu trúc 6 điểm sau đây:
(a) tóm lược giả thuyết, mục tiêu, và phát hiện chính trong đoạn văn đầu tiên;
(b) so sánh những kết quả này với các nghiên cứu trước;
(c) giải thích kết quả bằng cách đề ra mô hình mới hay giả thuyết mới;
(d) khái quát hóa và ý nghĩa của kết quả;
(e) bàn qua những ưu điểm và khuyết điểm của công trình nghiên cứu; và
(f) và sau cùng là một kết luận sao cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ dàng.
Trong phần thảo luận, tác giả phải giải thích, hay đề nghị một mô hình giải thích, tại sao những dữ kiện thu thập được có xu hướng đã quan sát trong cuộc nghiên cứu. Nếu không giải thích được thì nhà nghiên cứu phải thành thật nói y như thế: không biết. Tác giả còn phải so sánh với kết quả của những nghiên cứu trước và giải thích tại sao chúng (những kết quả) khác nhau, hay tại sao chúng lại giống nhau, và ý nghĩa của chúng là gì. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn phải có trách nhiệm tự mình vạch ra những thiếu sót, những trắc trở, khó khăn trong cuộc nghiên cứu, cùng những ưu điểm của cuộc nghiên cứu, cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hay những đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai. Sơ đồ 2 sau đây có thể dùng để làm dàn bài để viết phần thảo luận.

Sơ đồ cho phần thảo luận
Câu hỏi cần phải trả lời
Nội dung
Phát hiện chính là gì?
Phát biểu những phát hiện chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước đây.
Kết quả có nhất quán (consistent) với nghiên cứu trước?
Giải thích tại sao không nhất quán. Có phải do vấn đề địa phương, bệnh nhân, chẩn đoán, đo lường, phân tích, v.v… Phải suy nghĩ và giải thích.
Giải thích tại sao có kết quả như trong nghiên cứu, mối liên hệ đó có phù hợp với giả thuyết?
Đây là đoạn văn khó nhất, vì tác giả phải suy nghĩ, vận dụng kiến thức hiện hành, và tìm mô hình để giải thích kết quả nghiên cứu của mình. Nếu kết quả là một mối tương quan (như gien và bệnh), phải thuyết phục người đọc rằng mối tương quan này không phải ngẫu nhiên, mà có cơ chế sinh học. Bàn về cơ chế của mối liên hệ một cách thuyết phục bằng cách sử dụng các nghiên cứu trước hay đề ra giả thuyết mới.
Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu là gì?
Đây là phần “generalization”, khái quát hóa. Đặt kết quả của nghiên cứu vào bối cảnh lớn hơn, và so sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận về cơ chế (nhưng không nên quá lời hay quá xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm trong khuôn khổ của dữ kiện thật).
Phát hiện đó có khả năng sai lầm không? Điểm mạnh và khiếm khuyết của nghiên cứu là gì?
Xem xét những yếu tố sau đây: thiếu khách quan trong đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối tượng ít? Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy đủ? Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ? V.v…
Kết luận có phù hợp với dữ kiện hay không?
Kết luận phải rõ ràng, nhưng không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu kết quả cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi.

1. Mở đầu phần bàn luận bằng cách tóm tắt bối cảnh, giả thuyết, mục tiêu và phát hiện chính của nghiên cứu. Đây thực chất là một đoạn văn tóm tắt những ý chính trong phần dẫn nhập và kết quả để một lần nữa nhấn mạnh rằng giả thuyết của tác giả đã được “minh chứng”. Người đọc cảm thấy dễ theo dõi khi những kết quả chính được tóm lược trong phần mở đầu của bàn luận. Do đó, tác giả cần phải viết ra kết quả bằng con số (có thể lặp lại ở phần kết quả) để nhấn mạnh. Chú ý rằng, một bài báo khoa học đôi khi cũng cần “điệp khúc” để nhấn mạnh, nhưng đừng có quá nhiều điệp khúc như nhạc vì sẽ gây phản cảm.
Ví dụ: Đoạn sau đây mở đầu bằng câu văn nói về lí do nghiên cứu, kế đến là câu văn mô tả kết quả chính, và nhấn mạnh đến cái mới của kết quả: "There has been little doubt that BMD measured at various sites is one of the best measureable determinants of fracture risk [28-30]. BMD is, in turn, regulated by genetic, hormonal, dietary and mechanical factors. The present study addressed a small part of this complex system by using the classical twin design. It was found that (i) both lean mass and fat mass were associated with areal BMD; however, fat mass alone appeared to have an independent effect on BMD/height ratios and volumetric BMD; (ii) both lean mass and fat mass as well as BMD were under strong genetic influence and (iii) the association between fat mass (and lean mass) and BMD were mainly mediated through environmental influences."
2. So sánh kết quả của nghiên cứu với các nghiên cứu trước. Trong đoạn văn này, ngoài so sánh, tác giả còn phải có trách nhiệm phải giải thích tại sao kết quả của nghiên cứu khác (hay không nhất quán) với nghiên cứu trước. Khi bàn luận về kết quả nghiên cứu trước, nếu cần, tác giả có thể trích dẫn con số cụ thể và giải thích kết quả đó có thật sự nằm trong sự kì vọng chung của vấn đề. Khi xem xét đến các yếu tố có thể giải thích sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu, cần chú ý đến những khác biệt về quần thể nghiên cứu (tuổi, giới tính, đặc tính lâm sàng …), điều kiện địa phương, phương pháp đo lường, phương pháp phân tích, v.v… Nếu không thể giải thích tại sao có sự khác biệt, tác giả có thể thành thật nói như thế: không biết!
Ví dụ: "This study confirms the familial influence on bone density with estimates of heritability for the lumbar spine, femoral neck and total body BMD of 78%, 76% and 79%, respectively, comparable with previous estimates [12-16]. However, the present study also indicates that a common source of genetic and ... ."
3. Giải thích kết quả và cơ chế của những mối liên hệ phát hiện trong nghiên cứu. Trong phần này, tác giải phải giải thích những kết quả có thể giải thích bằng kiến thức hiện hành. Trong đoạn văn này, tác giả có thể trích dẫn các nghiên cứu khác và hệ thống hóa thông tin để giải thích kết quả của nghiên cứu mình. Tác giả có thể đề ra giả thuyết mới để giải thích. Chẳng hạn như nếu nghiên cứu phát hiện ảnh hưởng của thuốc bisphosphonates và ung thư vú, thì tác giả phải tìm những thông tin nghiên cứu trước về cơ chế của mối liên hệ. Có thể nói rằng đây cũng là đoạn văn khó viết nhất, vì phải hệ thống hóa nhiều kiến thức hiện hành mà không đi ra ngoài phạm vi của nghiên cứu.
Ví dụ: Đoạn sau đây tôi trích từ một bài báo mới nhất từ tập san Archives of Internal Medicine về nghiên cứu so sánh tác hại của 2 thuốc rosiglitazone và pioglitazone đến bệnh tim mạch. Các tác giả giải thích tại sao sao thuốc rosiglitazone gây tác hại cao hơn thuốc pioglitazone. Thật ra, họ không giải thích được, nhưng họ đề nghị giả thuyết để giải thích:
“The potential mechanism(s) for cardiovascular (CV) harm from rosiglitazone use (and the differences from pioglitazone use) remains to be elucidated, but there are several reasonable hypotheses. Rosiglitazone therapy increased low-density lipoprotein cholesterol (LDL-C) levels as much as 23% in trials, leading to approval.21 Current FDA guidelines consider a drug that lowers LDL-C levels by at least 15% “approvable” for presumed CV benefits. Although the FDA has not established a level of increase in LDL-C that is presumed to cause harm, a drug that increases LDL-C levels would reasonably be expected to increase CV adverse events. Interestingly, the lipid effects of the 2 marketed thiazolidinediones, pioglitazone and rosiglitazone, are markedly different.”
4. Khái quát hóa kết quả nghiên cứu và giải thích ý nghĩa của kết quả. Trong đoạn văn này, tác giả cần phải bàn về khả năng mà những phát hiện của nghiên cứu có thể áp dụng cho một quần thể khác hay không. Nếu áp dụng cho quần thể khác, thì phải dựa vào giả định (assumptions) nào. Nếu là nghiên cứu về tiên lượng và chẩn đoán, tác giả có thể bàn về giá trị kinh tế và lâm sàng của phương pháp chẩn đoán.
Ví dụ: Đoạn văn sau đây cố gắng thuyết phục tại sao mối liên hệ giữa vitamin D và TB là quan trọng và có ý nghĩa lâm sàng: “The finding of high prevalence of vitamin D insufficiency in TB patients has a number of clinical implications. Vitamin D in the form of cod liver oil and sunlight exposure was once a therapy for tuberculosis prior to the Robert Koch’s discovery of the etiology of this disease. The association between vitamin D insufficiency and the risk of tuberculosis suggests that supplementation of vitamin D may help prevent and reduce the severity of tuberculosis. Indeed, a recent randomized controlled trial has shown that the severity of TB at the end of treatment was less for patients with normal vitamin D status at baseline than for those with vitamin D insufficiency, without adverse effects. However, the vitamin D dose used in the intervention (100,000 IU) is probably too low to warrant a clinical effect. These results taken together suggest that low vitamin D status in TB patients, whether cause or effect, might be an important determinant of treatment outcome and comorbidities.”
5. Bàn luận về điểm mạnh và điểm yếu của công trình nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa học, bên cạnh thành công, lúc nào cũng có hạn chế. Một trong những lí do mà người bình duyệt và chủ biên tập san từ chối bài báo là do tác giả không chịu bàn luận về những điểm mạnh và hạn chế của công trình nghiên cứu. Do đó, trong đoạn văn này, tác giải cố gắng suy nghĩ ra những lợi điểm và khuyết điểm của nghiên cứu mình. Những điểm này (cả mạnh và yếu) có thể là cách thiết kế, quần thể nghiên cứu, bệnh nhân, cách đo lường, phương pháp phần tích, v.v… Chẳng hạn như nếu nghiên cứu làm ở quần thể người Việt, thì “điểm yếu” có thể là kết quả này không thể khái quát hóa cho các quần thể người da trắng. Cố nhiên, những kết quả không như dự đoán cũng bên được bàn luận đến nơi đến chốn. Mở đầu đoạn văn này bằng một câu như "The present findings must be interpreted in the context of a number of potential limitations. The data were obtained from a Caucasian population in Sydney, among whom, cultural backgrounds and ... ." Chú ý là tác giả dùng chữ “potential limitations”!
Thỉnh thoảng, tác giả có thể dùng kĩ thuật tranh luận “người rơm” (straw man argument). Kĩ thuật này có thể nôm nà mô tả như sau: dựng nên một hình nộm bằng rơm, rồi phê bình hình nộm đó để chứng minh rằng nghiên cứu mình không có vấn đề. Ví dụ: trong đoạn văn sau đây, tác giả đặt ra một vấn đề (mà thật ra không quan trọng) để làm như quan trọng! “A limitation of this study was that we could not measure vitamin D2 (ergocalciferol) and 1,25D in this study; however, the occurrence of this vitamin D (less than 10% of sera) seems not to be a major problem.” Đoạn đầu, tác giả dựng nên “hình nộm” 1,25D, rồi ngay sau đó đánh đổ hình nộm đó bằng cách lí giải rằng không có vấn đề gì cả! Cách bàn luận này chứng tỏ cho người đọc, người bình duyệt thấy rằng tác giả đã suy nghĩ trước mọi tình huống có thể xảy ra, đã xem xét hết những vấn đề có thể ảnh hưởng đến nghiên cứu, nhưng … chẳng có vấn đề nào cả. Cách viết như thế cũng chứng tỏ tác giả suy nghĩ đến kết quả của mình một cách nghiêm chỉnh, và có tính toán đến cách diễn giải khác. Chú ý, để có kĩ thuật này, tác giả phải cẩn thận, chứ nếu không thì dễ gây ra phản tác dụng.
6. Sau cùng là một đoạn văn kết luận, gọi là "big" bottom line. Đây cũng có thể là đoạn văn khó viết nhất vì nó phải mang tính cô động (chỉ vài mươi từ thôi), mà phải chuyển tải được kết quả và ý nghĩa của nghiên cứu. Tôi thường hay nói đùa rằng phải viết làm sao mà khi người ta đọc xong đoạn văn này, ban đêm về ngủ nằm để tay lên trán, họ vẫn nhớ đến công trình nghiên cứu của mình! Tiếng Anh gọi đây là "take home message," tức là thông điệp mà tác giả muốn chuyển tải đến người đọc.
Vì dụ về đoạn văn kết luận: "In conclusion, these data indicate that the clinically relevant association between volumetric BMD and body composition is mediated only through fat mass. Furthermore, lean mass and fat mass, as with .... These data also suggest that modulation of environmental factors could translate to clinically relevant changes in BMD and presumably fracture risk." Chú ý đoạn văn này có 2 câu: câu đầu (“in conclusion”) tóm lược kết quả, và câu hai (“these data suggest”) có nội dung diễn giải kết quả.
Trong đoạn văn quan trọng này, cố tránh cách viết vô duyên (nhưng rất phổ biến trong các tập san y khoa) như "Further research is needed", vì câu văn này chẳng những thừa, mà còn chẳng có ý nghĩa gì. Đương nhiên là trong khoa học, một nghiên cứu sao khi hoàn tất đều mở ra một cánh cửa mới, một ý tưởng mới, cho nên chắc chắn sẽ có thêm nghiên cứu. Câu văn như thế còn cho thấy tác giả chưa đầu tư thì giờ suy nghĩ đến nơi đến chốn mình muốn nói điều gì!
Một trong những cách viết cũng có thể làm người đọc “bực mình” là cách viết quá bất định trong phần kết luận, như "This seems to suggest ..." (chú ý chữ “seem”) vì nó cho thấy tác giả không chắc chắn về ý nghĩa của nghiên cứu mình. Nếu tác giả không chắc chắn thì tác giả đã làm phí thì giờ người đọc! Một kết quả có nhiều cách diễn giải, và người đọc muốn biết theo quan điểm của tác giả, cách diễn giả là gì, chứ không phải “seem” (dường như là)!
Cảm tạ (Acknowledgments). Thông thường ngay sau phần bàn luận là phần nhỏ để tác giả viết vài dòng cảm tạ. Cảm tạ những đồng nghiệp đã giúp đỡ cho công trình nghiên cứu, nhưng họ không đủ tiêu chuẩn để đứng tên tác giả. Cảm tạ những cơ quan đã tài trợ cho nghiên cứu, hay nhà hảo tâm giúp đỡ tiền bạc cho tác giả trong quá trình làm việc.
Mấy năm gần đây, một số tập san yêu cầu tác giả phải có sự đồng ý của người được cảm tạ. Sở dĩ có trường hợp này là vì trong quá khứ có tác giả lợi dụng phần này để trưng bày những cái tên lớn trong ngành nhằm tăng giá trị khoa học của bài báo (và một phần nhằm ngầm thuyết phục người bình duyệt rằng “bài báo của chúng tôi có sự ủng hộ của tổ sư”), nhưng các nhân vật được trưng bày không hế biết!
***
Nên nhớ rằng phần bàn luận là nơi thể hiện sự đóng góp tri thức của tác giả vào kho tàng tri thức hiện hành. Đây là phần mà tác giả có thể đặt ra giả thuyết mới, hoặc mô hình mới, hoặc qui luật mới để giải thích hiện tượng qua kết quả nghiên cứu của mình. Do đó, nếu phần bàn luận được viết tốt, giá trị bài báo sẽ tăng rất cao.
Riêng những chỉ dẫn trên đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi đúc kết sau nhiều năm cọ sát, mà có lẽ các bạn không tìm thấy trong bất cứ sách nào hay bất cứ bài chỉ dẫn nào từ các chuyên gia phương Tây. Tôi đã làm “thí nghiệm” với nhiều nghiên cứu sinh của tôi và đồng nghiệp của tôi về cấu trúc đó, và tôi có thể hãnh diện nói rằng rất có hiệu quả. Khi nghiên cứu sinh tuân thủ theo những đoạn văn theo chỉ dẫn trên đây, họ đều được người bình duyệt khen là bài báo “well written”. Lời khen mới nhất là cách đây 3 tuần! Do đó, các bạn có thể làm thử bằng cách viết phần thảo luận theo cấu trúc trên và xác suất thành công có thể lên đến 95%, nếu sử tiếng Anh cho tốt. Trong các bài tiếp theo, tôi sẽ chỉ các bạn cách sử dụng tiếng Anh trong từng phần của bài báo khoa học.
Chú thích:
Sau đây là phần bàn luận của một bài báo mới nhất trên tập san Archives of Internal Medicine mà tôi nghĩ tiêu biểu cho một bàn luận tốt. Bài này thật ra là một phân tích tổng hợp (meta-analysis) về tác hại của rosiglitazone (một thuốc điều trị tiểu đường) đến các bệnh tim mạch. Tôi sẽ trích và có vài ghi chú ngắn:
Mớ đầu phần bàn luận tác giả cung cấp bối cảnh của “câu chuyện”, và tóm lược kết quả chính:
“The CV safety of rosiglitazone therapy has remained controversial after the publication of initial reports that suggested that the use of rosiglitazone increases the risk for MI and other ischemic myocardial events.1, 14, 20 Despite 11 years on the market, rosiglitazone has not been studied in any definitive randomized controlled CV outcomes trials. Accordingly, a meta-analysis of existing clinical trials represents the most robust available approach to determining the CV safety of this drug. The current study analyzed MI and CV mortality for 56 randomized trials involving 35 531 patients. Using a study-level meta-analysis, the OR for MI was significantly increased but without evidence of an increase in CV or all-cause mortality. An alternative analysis that included trials with no CV events found a similar hazard (Figure 3). Subgroups classified by study duration and comparator drug also showed elevated OR estimates (Figure 2). These findings are consistent with prior meta-analyses conducted by GSK, the FDA, and most independent investigators demonstrating an increased risk of MI in patients treated with rosiglitazone.1, 10, 14, 20 The FDA has announced that it will conduct an advisory committee meeting in July 2010 to consider whether to remove rosiglitazone from the market.
Đoạn dưới đây, tác giả bàn về ý nghĩa của nghiên cứu, như tuyên bố trong câu văn đầu. Các câu văn kế tiếp nhằm chứng minh cho câu tuyên bố đó:
The public health implications of these results are considerable. There are more than 23 million persons with diabetes in the United States alone and nearly 300 million worldwide.30-31 Cardiovascular disease is the leading cause of death in patients with type 2 diabetes, representing approximately 68% of all causes of mortality.30 The estimated 28% to 39% increase in the risk for MI observed for rosiglitazone use in the current analysis and the NNH of 52 or 37 (with and without the RECORD trial) represent a significant potential health burden. The magnitude of the observed effect is larger than might be anticipated in a safety analysis using intent-to-treat (ITT) methods. In ITT efficacy studies, discontinuation of therapy or crossovers between treatment groups bias the study toward the null hypothesis, thereby favoring the control treatment. However, in safety studies, similar flaws in study conduct bias the investigation toward a relative risk of 1.0, providing the potential for a false declaration of safety. Accordingly, using standardized ITT methods, it is statistically much more difficult to conclude that a therapy is unsafe than to demonstrate efficacy. Because we did not have access to patient-level data, we were unable to perform a useful alternative analysis that is commonly used in drug-safety studies, a "per protocol" approach that includes events that occurred "on-treatment" or within 30 days after discontinuation of treatment.
Đoạn này giải thích tại sao tác giả sử dụng phương pháp phân tích, và chỉ ra rằng dùng phương pháp nào thì kết quả vẫn không khác nhau:
We elected to present analyses with and without the RECORD trial. Several of the concerns about the RECORD trial have been reported elsewhere.5-8 The study was an open-label, randomized noninferiority trial that compared rosiglitazone with metformin or sulfonlyurea. The primary efficacy parameter was unconventional, CV hospitalization or death. The study postulated an annual event rate of 11% but observed an event rate of only 2.6%, a large mismatch that substantially reduced statistical power. The MI rate for the control group in the RECORD trial was 0.52% per year compared with 1.38% for a similar population in the ACCORD trial, raising the concern that MIs may have been incompletely ascertained. By the end of the trial, 40% of patients randomized to rosiglitazone therapy were no longer taking the drug. Nonadherence to randomized therapy represents an important issue in a safety trial because, as noted above, dropouts and crossovers bias the result toward the null hypothesis. Finally, the company compromised data integrity by publishing an unplanned interim analysis32 and appears to have had access to ongoing study data at a time when the trial should have remained blinded.2, 6-7
Đoạn này tác giả bàn về những hạn chế của nghiên cứu:
The limitations of our meta-analysis are notable. We had access to study-level data that were diclosed as a result of a court settlement and subsequently posted on a company Web site. The unavailability of patient-level data precluded a more statistically powerful analysis using time-to-event methods. However, it should be noted that the original 2007 meta-analysis was subsequently replicated by the FDA using time-to-event data, resulting a nearly identical relative risk. There are important strengths to the study. The number of patients and studies included in the analysis is substantially larger than was available for our original meta-analysis, which was completed in 2007. Furthermore, because disclosure of all clinical trials by the maker of rosiglitazone was mandated by a court order, the common problem of publication bias did not confound our analyses. The original 2007 analysis was criticized by some authors because it did not include clinical trials in which there were no events.13 Therefore, in the current effort, we provided an alternative approach that includes all 56 trials, regardless of whether there were adverse events. With both methods, the OR was nearly identical.
A related issue involves the question of whether use of the other marketed thiazolidinedione, pioglitazone, carries similar risks. A large CV outcomes trial with pioglitazone, the PROACTIVE (Prospective Pioglitazone Clinical Trial in Macrovascular Events) trial, which was published in 2005, did not show statistically significant benefits.33 It showed a trend toward reduction in the primary efficacy parameter, a broad composite of CV events (HR, 0.90; 95% CI, 0.80-1.02; P = .10). However, a prespecified secondary end point of death, MI, and stroke showed a benefit (HR, 0.84; 95% CI, 0.72-0.98; P = .03). A patient-level meta-analysis of CV outcomes with pioglitazone analyzed 19 trials, with a total enrollment of 16 390 patients, and showed a statistically significant benefit on the composite of death, MI, and stroke (OR, 0.82; 95% CI, 0.72-0.94; P = .005). These findings effectively rule out a CV hazard for pioglitazone use and suggest the possibility of a CV benefit. However, it must be noted that the use of both rosiglitazone and pioglitazone has been associated with an increased risk of congestive heart failure.
Đoạn này tác giả bàn về cơ chế tại sao rosiglitazone có thể gây tác hại:
The potential mechanism(s) for CV harm from rosiglitazone use (and the differences from pioglitazone use) remains to be elucidated, but there are several reasonable hypotheses. Rosiglitazone therapy increased low-density lipoprotein cholesterol (LDL-C) levels as much as 23% in trials, leading to approval.21 Current FDA guidelines consider a drug that lowers LDL-C levels by at least 15% "approvable" for presumed CV benefits. Although the FDA has not established a level of increase in LDL-C that is presumed to cause harm, a drug that increases LDL-C levels would reasonably be expected to increase CV adverse events. Interestingly, the lipid effects of the 2 marketed thiazolidinediones, pioglitazone and rosiglitazone, are markedly different.34 In a comparative efficacy trial, rosiglitazone therapy produced greater increases in LDL-C levels and raised triglyceride levels, while pioglitazone therapy reduced triglyceride levels. Pioglitazone therapy also produced significantly greater increases in high-density lipoprotein cholesterol compared with rosiglitazone therapy. Thiazolidinediones are nuclear receptor agonists that modulate expression of a large number of genes. There are major differences in the pattern of gene modulation for pioglitazone vs rosiglitazone.35 Rosiglitazone activates a gene associated with production of matrix metalloproteinase 3, an enzyme linked to plaque rupture.36
Và quay lại phần ý nghĩa. Tôi nghĩ tác giả muốn viết theo cách “điệp khúc”, tức là nhắc lại tầm quan trọng của nghiên cứu:
There are also implications of these findings on the traditional approach used by regulatory authorities to approve drugs that are used to treat diabetes. Historically, evidence of a glucose-lowering effect, with no evidence for obvious safety issues, was sufficient for approval. In the wake of the rosiglitazone controversy, the FDA has mandated that sponsors of all new diabetes drugs perform CV outcomes studies sufficient to rule out an HR with an upper 95% CI of 1.8 before approval and 1.3 after approval.37 Had such requirements been in place at the time rosiglitazone was developed, it seems likely that the drug would never have been approved.
Và đoạn kết luận. Nhưng tôi thì nghĩ tác giả viết đoạn này dài quá. Đáng lẽ ngắn hơn. Nhưng văn là người, nên có thể đây là phong cách của tác giả!
The results of the current meta-analysis suggest an unfavorable benefit to risk ratio for rosiglitazone use. The implications of this finding warrant further discussion. Even a modest increase in the risk of MI in a diabetic population would have serious consequences. Reviewers within the FDA Office of Surveillance and Epidemiology calculated the number of major CV events potentially attributable to rosiglitazone therapy from 1999 to 2006, reporting a range from 41 000 to 205 000.2 More recently, using lower estimates of the rate of drug use after the 2007 controversy, FDA reviewers have calculated the number of excess MIs (6000 annually) potentially attributable to rosiglitazone use relative to treatment with the alternative thiazolidinedione, pioglitazone.3 Although hyperglycemia has been associated with an increased risk of microvascular adverse events, there are now 12 classes of drugs that are approved to lower blood glucose levels, including insulin. Because no unique benefits of rosiglitazone use have been identified, administration of this agent solely to lower blood glucose levels is difficult to justify.”
Nguồn: Nissen SE, Wolski K. Rosiglitazone Revisited. Arch Intern Med. 2010;170(14).
Về Đầu Trang Go down
mars
Trung Tướng
Trung Tướng
mars


Tổng số bài gửi : 80
Join date : 05/12/2010
Đến từ : India

Cách viết một bài báo khoa học p2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cách viết một bài báo khoa học p2   Cách viết một bài báo khoa học p2 EmptyThu Dec 09, 2010 12:40 am

Trời ơi, sao mà chóng mặt quá vậy. Đọc hết cái này chắc hỏa luôn quá. Mới nhìn đã hết muốn đọc rồi.. affraid
Về Đầu Trang Go down
 
Cách viết một bài báo khoa học p2
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Cách viết một bài báo khoa học
» Hỏi về cách làm Report
» Khoa học và ngụy khoa học-p3
» Khoa học và ngụy khoa học-p4
» Khoa học và ngụy khoa học

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
DIỄN ĐÀN HÓA HỌC _ ĐẠI HỌC TRÀ VINH :: OTHERS-
Chuyển đến